(14)

Chúa Kitô là

Con Thiên Chúa hằng sống

 

 

“T

ôi tin kính một Thiên Chúa là Cha Toàn Năng... Tôi tin kính... Chúa Giêsu Kitô, Con một Thiên Chúa, sinh bởi Chúa Cha từ trước muôn đời, Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Aùnh Sáng bởi Aùnh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản thể với Chúa Cha...”

            Những lời Kinh Tín Kính Nicêa-Contantinôpôli này là một diễn đạt tổng hợp của các Công Đồng Chung Nicêa và Contantinôpôli. Hai công đồng chung này đã làm sáng tỏ giáo lý Chúa Ba Ngôi của Giáo Hội, vậy cùng với hai công đồng này chúng ta hãy tuyên xưng đức tin của chúng ta vào Con Thiên Chúa.

            Chúng ta tiến đến mầu nhiệm Chúa Giêsu kitô là như thế. Ngày hôm nay cũng như những thế hệ trước kia, Chúa Giêsu vẫn thử hỏi loài người bằng các lời nói và việc làm của Người. Được đức tin linh động, Kitô hữu chứng tỏ cho Người thấy tình yêu và lòng sùng kính của mình. Ngay cả một số người không phải Kitô hữu cũng thành tâm tôn tụng Người.

            Vậy đâu là cái bí mật thu hút mà Đức Giêsu Nazarét thể hiện? Việc tìm kiếm thân phận trọn vẹn của Chúa Giêsu Kitô ngay từ đầu đã gắn liền với cõi lòng và lý trí của Giáo Hội, một Giáo Hội loan truyền Người là Con Thiên Chúa, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Chí Thánh.

            Thiên Chúa vẫn nói với chúng ta “qua các tiên tri và trong những ngày sau hết này... qua một Người Con”, như Bức Thư gửi giáo đoàn Do Thái viết (1:1-2). Thiên Chúa đã tỏ mình ra là Người Cha của Người Con hằng hữu đồng bản thể. Về phần mình, Chúa Giêsu cũng tỏ ra thân phận con cái thần linh của Người qua việc cho thấy vai trò làm cha của Thiên Chúa. Tình phụ tử thần linh được liên hệ chặt chẽ trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. “Ngôi Vị Cha là một, Ngôi Vị Con là hai và Ngôi Vị Thánh Linh là ba; thế nhưng thần tính của Cha, của Con và của Thánh Linh chỉ là một, bằng nhau trong vinh quang, cùng hằng hữu trong uy quyền... Ngôi Con không phải được làm nên hay được tạo thành mà là được sinh ra bởi một mình Ngôi Cha” (Biểu hiệu Quicumque).

            Đức Giêsu Nazarét là Đấng đã kêu lên: “Con tạ ơn Cha là Chúa trời đất, vì Cha đã dấu kẻ khôn ngoan và hiểu biết những điều Cha mạc khải cho những trẻ bé mọn...” cũng là Đấng đã long trọng xác nhận: “Tất cả mọi sự Cha Thày đã ban cho Thày; nên không ai biết Con trừ ra Cha, và không ai biết Cha trừ ra Con và người được Con tỏ ra cho” (Mt.11:25,27).

            Chúa Con, khi đến trong thế gian “để tỏ Cha ra” như chỉ có mình Người biết Ngài, thì đồng thời cũng đã tỏ mình ra như Người Con chỉ có mình Cha biết. Mạc khải này được nâng đỡ bởi ý thức mà ngay từ còn nhỏ Chúa Giêsu đã tỏ cho Mẹ Maria và Thánh Giuse rằng “Người phải lo đến công cuộc Cha của Người” (x.Lk.2:49). Lời mạc khải của Người, hơn nữa, còn được vững mạnh bởi chứng của Chúa Cha, nhất là ở những trường hợp nhất định, như trong việc lãnh nhận phép rửa ở sông Dược Đăng. Những người hiện diện bấy giờ đã nghe thấy tiếng nói mầu nhiệm: “Đây là Con Ta yêu dấu, Người rất đẹp lòng Ta” (Mt.3:17), hay trong cuộc biến hình trên núi (x.Mk.9:7 và các đoạn tương đương).

            Sự mệnh của Chúa Giêsu Kitô trong việc mạc khải Chúa Cha bằng việc tỏ mình ra như Người Con đã không tránh khỏi khó khăn. Người phải thắng vượt những trở ngại bắt nguồn từ tâm thức độc thần triệt để nơi thính giả của Người. Họ đã được đào luyện theo giáo huấn của Cựu Ước, để trung thành với truyền thống kể từ Abraham và Moisen, cũng như để chống lại với chủ trương đa thần. Chúng ta thấy nhiều dấu vết khó khăn này trong các Phúc Aâm, nhất là trong Phúc Aâm theo Thánh Gioan. Chúa Giêsu đã có thể lấy khôn ngoan chế ngự nó, ở chỗ thay thế vào giáo huấn chính xác cao cả bằng những dấu hiệu mạc khải giúp cho các môn đệ dễ dàng chấp nhận.

            Chúa Giêsu đã nói với các thính giả của Người bằng một đường lối dứt khoát rõ ràng: “Cha là Đấng sai Tôi làm chứng cho Tôi”. Với câu hỏi: “Cha ông ở đâu?”, Người trả lời: “Qúi vị không biết Tôi cũng chẳng biết Cha Tôi; nếu qúi vị biết Tôi, qúi vị cũng sẽ biết Cha Tôi nữa...”, “Tôi nói những gì Tôi đã thấy nơi Cha Tôi...”. Đối với thành phần chống đối Người rằng “Chúng tôi chỉ có một Người Cha là Thiên Chúa...”, Người đã vặn lại: “Nếu Thiên Chúa là Cha của qúi vị thì qúi vị phải yêu mến Tôi, vì Tôi sinh bởi và đến từ Cha... Ngài đã sai Tôi...”, “Thật thế, thật thế, Tôi cho qúi vị hay, Tôi hiện hữu trước cả lúc Abraham có” (x.Jn.8:12-59).

            Chúa Kitô phán: “Tôi hiện hữu”, giống như bao thế kỷ trước, tại chân Núi Horeb, khi Moisen hỏi danh xưng thần linh, Thiên Chúa đã trả lời: “Ta là Đấng hiện hữu” (x.Ex.3:14). Những lời của Chúa Kitô: “Tôi hiện hữu trước cả lúc Abraham có” đã gây ra một phản ứng dữ dội nơi các thính giả, thành phần “tìm cách sát hại Người, vì Người gọi Thiên Chúa là Cha mình, đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa” (Jn.5:18).

            Chúa Giêsu không chỉ giới hạn mình ở chỗ phán: “Cha Tôi làm việc cho tới nay nên Tôi cũng đang làm việc đây” (Jn.5:17), mà còn tuyên bố: “Tôi và Cha Tôi là một” (Jn.10:30).

            Chúa Giêsu đã bị lôi đến án đường của Hội Đồng Do Thái vào những lúc thảm thiết trong cuối đời của Người. Chính Vị Thương Tế vừa đặt vấn đề vừa cáo tội Chúa Giêsu rằng: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, Ta truyền ngươi hãy nói cho chúng ta ngươi có phải là Đức Kitô, Con Thiên Chúa không?” (Mt.26:63). Chúa Giêsu đáp: “Ngài đã nói rồi đó” (Mt.26:64).

            Thảm kịch đã được kết thúc và Chúa Giêsu đã lãnh bản án tử.

            Chúa Kitô là Đấng mạc khải Chúa Cha và cũng là Đấng mạc khải chính mình như Người Con của Chúa Cha. Chúa Kitô đã chết vì Người làm chứng cho sự thật làm con thần linh của mình cho tới cùng.

            Bằng cả tấm lòng đầy yêu mến, hôm nay đây, cùng với Tông Đồ Phêrô chúng ta hãy lập lại với Người lời chứng nhận đức tin của chúng ta: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt.16:16).

           

            (Bài Giáo Lý ngày 30 tháng 10 năm 1985)